Hỗ Trợ Trực Tuyến
tiendatdongphuong giamdocdonghanhviettravel dieuhanhdonghanhviet
tiendatdongphuong giamdocdonghanhviettravel tiendatdongphuong

Translate

TOUR PHỔ BIẾN

Kỷ Lục Tiền Giang:Trương Định với Gò Công - Trung tâm kháng chiến chống Pháp mạnh nhất ở Nam kỳ hồi nửa sau thế kỷ XIX


Trương Đnh sinh năm 1820 ti thôn Tư Cung, ph Bình Sơn, trn Qung Ngãi (nay là xã Tnh Khê, huyn Sơn Tnh, tnh Qung Ngãi) trong mt gia đình quan chc yêu nước. Năm 1844, cha ca ông là Trương Cm vào tnh Gia Đnh nhn chc Lãnh binh. Ông được đi theo và sau đó, kết hôn vi Lê Th Thưởng, vn là con gái ca mt hào phú Gò Công. Năm 1854, nh s tr giúp ca gia đình bên v, ông m dân lp đn đin Gia Thun (Gò Công) đ khai hoang vùng đt này. Vì thế, ông được triu đình phong chc Phó qun cơ.
Năm 1859, quân Pháp hạ thành Gia Định. Với lòng yêu nước nồng nàn, ông đã chỉ huy dân quân đồn điền đánh Pháp ở mặt trận Thuận Kiều và lập được nhiều chiến công, tiêu biểu là trận phục kích tiêu diệt tên đại úy thủy quân lục chiến Barbé tại chùa Khải Tường vào đầu tháng 12 - 1860. Cuối tháng 2 - 1861, đại đồn Chí Hòa bị quân Pháp chọc thủng; quân triều đình lui về giữ Biên Hòa còn ông rút về Gò Công, thành lập căn cứ kháng chiến Tân Hòa, tiếp tục công cuộc kháng chiến chống bọn thực dân xâm lược. Cũng trong thời gian này, ông kết hôn với Trần Thị Sanh và người vợ thứ hai này đã có sự đóng góp hậu cần rất quan trọng cho cuộc khởi nghĩa. Được biết, bà Trần Thị Sanh là em con cậu con cô với bà Thái hậu Từ Dũ, mẹ của vua Tự Đức.
Trên địa bàn Gò Công, Trương Định chiêu mộ được 6.000 nghĩa sĩ nên được triều đình phong chức Quản Cơ rồi thăng lên Phó Lãnh binh tỉnh Gia Định. Tại đây, ông ra sức củng cố căn cứ kháng chiến Tân Hòa. Mô tả căn cứ này, Palanca, viên sĩ quan chỉ huy quân Tây Ban Nha trong liên quân Pháp - Tây Ban Nha, cho biết : "Ở Gò Công, hai chiến lũy quan trọng nhất là rạch Gò Công và rạch Lá, gồm các hầm hào tự nhiên, pháo đài và lũy, khắp nơi đều có cầu nổi bắc qua hai bờ sông bùn lầy, cây cối rậm rạp".
Trên thực địa, căn cứ Tân Hòa bao gồm một hệ thống đồn lũy và pháo đài liên hoàn với nhau: về phía tây, lên đến giồng Ông Huê (thị trấn Vĩnh Bình, Gò Công Tây ngày nay) nhằm ngăn đường tiến quân của địch từ Mỹ Tho xuống; về phía tây bắc có lũy Đồng Sơn nằm dọc theo rạch Lá (Sông Tra) để kiểm soát con đường thủy từ Sài Gòn xuống qua sông Vàm Cỏ Tây; về phía đông nam, có các đồn lũy nằm dọc theo rạch Vàm Giồng, sông cửa Tiểu, xóm Trại Cá Tăng Hòa và cù lao Lợi Quan nhằm đề phòng quân Pháp tấn công từ phía biển. Đại bản doanh của Trương Định được đặt tại giồng Sơn Quy. Ở đây, ông cho xây dựng chiến lũy Sơn Quy nằm dọc theo rạch Sơn Quy và chiến lũy Dung Giang nằm dọc theo rạch Gò Công. Ngoài ra, Trương Định còn cho xây dựng đồn trại ở Gia Thuận, vốn là đồn điền do ông lập ra năm 1854. Với việc Trương Định xây dựng căn cứ Tân Hòa, Gò Công đã trở thành trung tâm kháng chiến đầu tiên ở Nam kỳ, quy tụ hầu hết các phong trào chống thực dân Pháp ở vùng đất này trong những năm 60 của thế kỷ XIX.
Cuộc khởi nghĩa Trương Định có sự liên kết chặt chẽ với nhiều cuộc khởi nghĩa khác, như khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực ở Tân An, Trần Xuân Hòa, Võ Duy Dương và Nguyễn Hữu Huân ở Ba Giồng, v.v... Thực tế này được Nguyễn Thông ghi lại như sau: Khi Trương Định đóng giữ Tân Hòa, hội mọi người để bàn định kế hoạch...hào kiệt kéo đến như mây. Lực lượng nghĩa quân rất đông đảo, bao gồm nhiều thành phần khác nhau: ngoài binh lính đồn điền và nông dân ứng nghĩa chiếm số đông; còn có trí thức khoa bảng ở Gò Công và các vùng lân cận, như các vị Cử nhân Bùi Tấn, Cù Khắc Kiệm, Lý Duy Phiên, Hà Mậu Đức, v.v...các vị Tú tài Nguyễn Văn Trung, Huỳnh Văn Đạt, Bùi Văn Lý, Mai Phương Mỹ, Nguyễn Duy Thận, v.v...; thân sĩ, như Hồ Huân Nghiệp, v.v...; các vị nguyên là quan lại triều đình, như Đỗ Quang, Đỗ Trình Thoại, Lưu Tấn Thiện, Nguyễn Tánh Thiện, Lê Quang Quyền, Đặng Văn Duy, Phạm Tiến, v.v...
Cuộc khởi nghĩa còn có sự tham gia tích cực của nữ giới, như Bà Viết, Bà Lưu, nhất là bà Trần Thị Sanh - một người thuộc vào hàng Thích lý (bên ngoại) của nhà Nguyễn và là vợ thứ của Trương Định - đã có những đóng góp quan trọng về mặt hậu cần cho cuộc khởi nghĩa. Đặc biệt, Nguyễn Đình Chiểu - nhà trí thức lớn ở Nam kỳ - đã có sự hợp tác chặt chẽ với Trương Định trong việc bàn bạc cơ mưu đánh giặc. Đó là sự phối hợp tuyệt đẹp giữa những vị anh hùng: người bút, người gươm trong cuộc chiến đấu cứu nước hào hùng của dân tộc. Cuộc khởi nghĩa của Trương Định có lực lượng tham gia đông đảo là vì thế. Quả đúng là:
Gồm ba tỉnh dựng cờ phấn nghĩa, sĩ phu lắm kẻ vui theo,
Tom muôn dân gầy sổ mộ quân, luật lệnh nào ai dám nhạy.
Văn thời Tham biện, Thương biện, giúp các cơ bàn bạc nhung công,
Võ thời Tổng binh, Đốc binh, coi mấy đạo sửa sang khí giới "
(Văn tế Trương Định - Nguyễn Đình Chiểu)
Dưới sự chỉ huy của ông, nghĩa quân đã liên tục tấn công quân địch khiến bọn chúng phải rút khỏi Gò Công vào tháng 3 - 1862. Đến tháng 6 - 1862, sau khi ký hòa ước nhường đứt cho thực dân Pháp đảo Côn Lôn và ba tỉnh miền Đông Nam kỳ là Gia Định, Biên Hòa và Định Tường, triều đình nhà Nguyễn phong ông làm Lãnh binh tỉnh An Giang; đồng thời, buộc ông phải giải tán nghĩa quân và chấm dứt cuộc chiến đấu ở Gò Công. Thế nhưng, ông đã cưỡng lại lệnh của nhà vua theo lòng dân, ở lại Gò Công, tự xưng là Bình Tây Đại tướng quân, tiếp tục chỉ huy cuộc kháng chiến:
"...Bởi lòng chúng chẳng nghe Thiên tử chiếu, đón ngăn mấy dặm mã tiền,
Theo bụng dân phải chịu Tướng quân phù, gánh vác một vai khổn ngoại...".
Từ căn cứ Gò Công, ông đã chỉ huy nghĩa quân tấn công địch ở khắp mọi nơi và thu được những thắng lợi vang dội, nổi bật là cuộc tổng công kích nổ ra rất mãnh liệt trong tháng 12 - 1862, với các trận đánh vào đoàn tàu chiến của Pháp trên sông Vàm Cỏ (Trảng Bàng, Tây Ninh), các trận công đồn Rạch Tra, cách Sài Gòn 15 km, đồn Phước Hòa, đồn Rạch Kiến, đồn Bến Lức (Long An), đồn Long Thành (Đồng Nai), trận đánh pháo thuyền Alarme và khu pháo binh ven rạch Gò Công (Tiền Giang),v.v...Trước tình hình đó, đầu tháng 2 - 1863, thực dân Pháp đã huy động lực lượng hùng hậu tấn công căn cứ Gò Công. Đích thân Đô đốc Bonard - Tư lệnh quân viễn chinh Pháp ở Nam kỳ - xuống Gò Công vạch kế hoạch và trực tiếp chỉ huy cuộc đàn áp. Viên đô đốc này còn hứa thưởng 10.000 francs cho kẻ nào giết chết được Trương Định. Quyết chiến đấu đến cùng, ông đã bình tỉnh và mưu trí chỉ huy nghĩa quân kiên cường đánh trả các cuộc tấn công của địch, gây cho quân Pháp những thiệt hại nặng nề. Tuy nhiên, do quân đông lại được liên tục bổ sung quân số và vũ khí, nên quân Pháp đã phá được căn cứ của nghĩa quân.
Để tiếp tục cuộc chiến đấu, ông cho rút quân qua Lý Nhơn (nay thuộc huyện Cần Giờ, TP Hồ Chí Minh), lập căn cứ mới. Tại đây, ông chia nghĩa quân thành nhiều toán nhỏ và rải ra hoạt động ở nhiều nơi nhằm cơ động đánh địch, phá kế hoạch phân tán lực lượng để giữ đất của bọn chúng; đồng thời, giải quyết nạn khó khăn về lương thực cho nghĩa quân; và thông qua đó, tuyên truyền, vận động nhân dân ủng hộ cuộc kháng chiến cũng như bảo toàn và gầy dựng lại lực lượng nghĩa quân.
Nhận thấy hoạt động của nghĩa quân có chiều hướng ngày càng gia tăng, ngày 25- 9 - 1863, quân Pháp mở cuộc đột kích vào căn cứ Lý Nhơn. Nghĩa quân phá vòng vây, trở về vùng Gò Công và chọn khu vực Đám lá tối trời ở hai làng Tân Phước và Kiểng Phước làm nơi ẩn náu, chờ thời cơ mới. Bất ngờ, ngày 20 - 8 - 1864, do có chỉ điểm, tên tay sai đắc lực của thực dân Pháp là Huỳnh Văn Tấn dẫn quân tấn công nơi ở của ông. Sau một trận giáp chiến quyết liệt, ông thoát được ra ngoài; nhưng bị địch bắn theo và hy sinh tại trận, hưởng dương 44 tuổi (1).
Sau khi ông mất, nhà yêu nước Nguyễn Đình Chiểu đã làm bài văn tế và mười hai bài thơ điếu Trương Định, ca ngợi cuộc đời chiến đấu hào hùng và cái chết lẫm liệt của ông. Hiện nay, ngoài lăng mộ và đền thờ chính tọa lạc tại thị xã Gò Công (Tiền Giang), chính quyền và nhân dân ở nhiều nơi, như Gia Thuận, Tân Phước, Tân Tây, Tân Hòa (huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang), Bửu Hòa, Phước Hòa (thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai), Sơn Tịnh (tỉnh Quảng Ngãi),v.v...còn thiết lập đền thờ và miếu thờ ông.
NGUYỄN PHÚC NGHIỆP