Du
khách đến Mỹ Tho mà không thăm chùa Vĩnh Tràng là một điều thiếu sót. Đây là
ngôi chùa cổ danh tiếng và là một công trình kiến trc tiu biểu ở Nam Bộ. Cha
tọa lạc trn mảnh vườn cây ăn trái rộng gần 2 hecta, thuộc làng Mỹ Hóa, nay là x
Mỹ Phong, bn con rạch Bảo Định hiền hịa nước ngọt quanh năm.
Vào nửa đầu thế kỷ XIX, chùa vốn là một thảo am do ông Tri Huyện Bùi Công Đạt
phát nguyện xây cất để di dưỡng tinh thần sau khi về hưu. Ông thỉnh Hịa thượng
Từ Lâm ở cha Bửu Lm về trụ trì. Sau khi ơng Bi Cơng Đạt qua đời, Hịa thượng Huệ
Đăng d vận động tín đồ xây dựng thành ngôi đại tự với tên Vĩnh Tràng, hoàn
thành vào mùa hè năm Canh Tuất (1850).
Lúc đầu mang tên LÀ Vĩnh Trường (sư muốn ngôi chùa mãi mãi trường tồn và vĩnh
cửu theo thời gian) nhưng do nhiều ngươì miền Nam đọc trại đi thành Vĩnh Tràng.
Kế vị trụ trì là hoà thượng Thích Thiện Đề. Khi ngài viên tịch thì ngôi chùa
hương khói lạnh tanh. Năm 1890, bổn đạo đến chùa Sắc Tứ Linh Thứu thỉnh hòa
thượng Quảng An-Chánh Hậu về trụ trì. Năm 1895, ngài đã tồ chức xây lại ngôi
chùa. Chùa hư hỏng nặng vì trận bão năm 1905. từ năm 1907->1911, này đã
khuyến giáo tín đồ đóng góp công của đại trùng tu ngôi chùa và mời điêu khắc
gia Tài Công Nguyên đảm nhận phần trang trí và tạc các tượng trong chùa. Hòa
thượng Chánh Hậu gốc người Minh Hương, sinh năm 1852 tại làng Điều Hòa tỉnh
Định Tường cũ. Năm 1897, ngài quy y thọ giới với hòa thượng Thích Minh Phước tại
chùa Bửu Lâm. Ngài được cử làm thủ thượng tọa chùa sắc tứ linh thou từ năm
1880, trụ trì chùa vĩnh tràng từ năm 1890 và đã thường xuyên mở các lớp gia
giáo để đào tạo tăng tài. Ngài viên tịch năm 1923. hòa thượng Tâm Liễu –An
Lạc(tức Minh Đàng, thế danh Lê Ngọc Xuyên) kế tục, cho xây cổng Tam Quan, mặt
tiền chánh điện và nhà tổ.
Chùa
trải qua bốn lần trùng tu: lần trùng tu thou 1 vào năm 1907, hòa thượng Chánh
Hậu đã trùng tu và tôn tạo lại mặt chùa. Mặt tiền chánh hậu được xây doing theo
lối kiến trúc á, âu; lần trùng tu thứ 2 vào năm 1930; lần trùng tu thứ 3 là
1990; lần trùng tu thứ tư là 2004. hiện nay đang được trùng tu lần nữa.
Trước cửa chùa có cổng tam quan rất tráng lệ do tốp người Huế thực hiện năm
1933 với sự tài trợ về kinh phí của 2 ông Hùynh Trí Phú và Lý Văn Quang. Cổng
giữa làm bằng sắt theo kiểu Pháp; 2 cổng bên làm bằng xi măng vươn cao như 2
tòa lâu đài cổ, được ghép tòa những mảnh sành sứ tạo nên những bức tranh với
màu sắc hài hòa, minh họa sự tích nhà phật, truyện tích nhân gian và các đề tài
Tứ Quý, Tứ Linh, hoa lá…tầng lầu thượng của cổng Tam Quan có vòm cửa rộng, bên
phải đặc tượng hòa thượng chánh hậu, bên trái đặt tượng hòa thượng Minh Đàng.
Cả 2 tượng này đều đắp bằng xi măng giống như tượng thật, do điêu khắc gia
Nguyễn Phi Hoanh thực hiện.
Mặt tiền chùa vĩnh tràng trang trí theo kiểu kết hợp đặc điểm kiến trúc cả Á,
lẫn Âu. Ơ nay có những hoa văn theo thời phục hưng, vòm cửa theo kiểu La Mã,
bông sắt Ấn Độ, gạch men nhật bản…những câu ngữ Hán viết theo lối thể chữ
truyện cổ kính xen với chữ quốc ngữ viết theo lối chữ Gô-Tích. Từ xa trông vào
du khách có thể hình dung ngôi chùa như đền Ăngkor có năm tháp. Theo truyền
tụng của nhân dân địa phương thì hòa thượng Minh đàn và ông quỳnh trí phú từng
du học sang xứ chùa tháp nên tiếp thu được cái trong kiến thức ngôi chùa tên
đó, kết hợp với kiến trúc phương tây.
Tượng có nhiều tay nhiều mắt gọi là chuan đề bồ taut, vị này là hiện thân của
quan thế âm bồ taut có nhiều tay, nhiều mắt để cứu độ chúng sinh: nhiều mắt để
thấy được nổi khổ của chúng sinh
Trong chùa có chuông đồng một tấn do vua Tự Đức cho kinh phí đúc, chuông được
làm sau năm giáp dần